Năng lượng, khoáng sản
Tình hình xuất khẩu than 10 tháng đầu năm 2013
12/12/2013

Tính từ đầu năm cho đến hết tháng 10/2013, cả nước đã xuất khẩu trên 10 nghìn tấn than đá, trị giá 721,8 triệu USD, giảm 14,37% về lượng và giảm 27,09% về trị giá so với cùng kỳ năm 2012. Tính riêng tháng 10/2013, xuất khẩu mặt hàng này lại tăng so với tháng liền kề trước đó, tăng 34,9% về lượng và tăng 23,2% về trị giá, tương đương với trên 1 triệu tấn, trị giá 73 triệu USD.

Việt Nam xuất khẩu than đá sang 10 thị trường trên thế giới, trong đó Trung Quốc là thị trường chính, chiếm 75,8% thị phần, với 7,6 triệu tấn, trị giá 447,3 triệu USD, giảm 16,11% về lượng và giảm 55,04% về trị giá so với cùng kỳ.

Đứng thứ hai sau thị trường Trung Quốc là Nhật Bản với 987,4 nghìn tấn, trị giá 128,3 triệu USD, tăng 9,81% về lượng nhưng lại giảm 11,69% về trị giá so với 10 tháng năm 2012.

Tuy là thị trường đứng thứ 4 với 143,5 nghìn tấn, trị giá 19,9 triệu USD, nhưng xuất khẩu than đá sang thị trường Malaixia lại có tốc độ tăng trưởng mạnh, tăng 51,37% về lượng và tăng 30,53% về trị giá so với cùng kỳ.

Nhìn chung, 10 tháng đầu năm nay, xuất khẩu than đá của Việt Nam sang các thị trường đều giảm hầu hết cả về lượng và trị giá, chiếm đến 80% - đây cũng là nguyên nhân làm giảm tốc độ xuất khẩu mặt hàng.

Thống kê sơ bộ của TCHQ về thị trường xuất khẩu than đá 10 tháng 2013

Thị trường

XK 10T/2013

XK 10T/2012

Tốc độ +/- (%)

lượng (tấn)

trị giá (USD)

lượng (tấn)

trị giá (USD)

lượng

trị giá

Tổng KN

10.068.620

721.871.936

11.758.657

990.097.976

-14,37

-27,09

Trung Quốc

7.637.599

447.305.754

9.104.128

994.957.975

-16,11

-55,04

Nhật Bản

987.499

128.305.613

899.283

145.295.882

9,81

-11,69

Hàn Quốc

904.643

71.209.251

978.835

92.545.495

-7,58

-23,05

Malaixia

143.501

19.900.723

94.799

15.246.320

51,37

30,53

Philippin

94.435

12.326.804

208.103

31.113.354

-54,62

-60,38

Thái Lan

77.322

9.738.535

126.222

17.203.300

-38,74

-43,39

Lào

74.026

8.876.919

81.687

9.979.291

-9,38

-11,05

Ấn Độ

35.697

6.275.507

113.012

28.713.293

-68,41

-78,14

indonesia

29.052

4.003.885

64.002

9.020.190

-54,61

-55,61

Oxtraylia

7.020

1.368.300

7.700

1.663.200

-8,83

-17,73

Được biết, Bộ Tài chính đã chấp thuận đăng ký giảm giá bán than tiêu thụ trong nước của Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam, áp dụng từ ngày 22/10 với mức giảm cao nhất là 9,5%.

Theo Bộ Tài chính, có 13 chủng loại than cục, than cám được đồng loạt điều chỉnh giảm giá. Tuy nhiên, mức giảm có sự khác nhau giữa nhóm các hộ tiêu dùng lẻ và 3 hộ tiêu dùng lớn là xi măng, phân bón, giấy.

Đối với các hộ tiêu dùng lẻ, loại than đắt giá nhất và có mức giảm mạnh nhất là than cục 5a. Tỷ lệ giảm tới 9,5%, mức giá bán còn 3,620 triệu đồng/tấn.

Mức giảm giá mạnh kế tiếp là than cám 3b, tỷ lệ giảm tới 8,5%, với giá còn 2,300 triệu đồng/tấn, than cám 3a giảm 8%, còn 2,450 triệu đồng/tấn, than giám 1HG giảm 7,6%, còn 3,660 triệu đồng/tấn và than cám 2HG giảm 7,7%, với giá còn 2,560 triệu đồng/tấn.

Trong số 13 loại than trên, riêng hai loại than cám 3a và 3b có giá vẫn bằng 91-92% giá xuất khẩu trong khi các chủng loại than còn lại chỉ bằng 90% (ngoại trừ than cám 3c bằng 89% giá xuất khẩu).

Ở đợt điều chỉnh này, loại than rẻ nhất đồng thời là than có mức giảm thấp nhất là than cục 1a, chỉ giảm 0,9%, còn 1,305 triệu đồng/tấn.

Đối với 3 hộ tiêu dùng lớn là giấy, phân bón và xi măng, than cám 4b có mức giảm sâu nhất là 6,7% với giá 1,8 triệu đồng/tấn và than cám 5b giảm thấp nhất, 1,5% với giá còn 1,305 triệu đồng/tấn.

Theo chính sách hiện hành, giá than bán trong nước ngoại trừ than bán cho điện đã đi theo thị trường và bằng 90% giá xuất khẩu. Nguyên nhân của đợt giảm giá than lần này là do giá xuất khẩu đã hạ nhiệt từ 20-40% trong suốt 2 quý vừa qua.

Hiện nay, chỉ còn giá than bán cho điện vẫn đang thấp hơn giá thành và việc điều chỉnh giá phụ thuộc vào lộ trình giá bán điện. Lộ trình tiệm cận thị trường của giá than bán cho điện đã được Chính phủ yêu cầu hoàn thành vào năm 2013.

Vì mục tiêu này, từ 15/9, giá than bán cho điện đã tăng từ 28-40%, bằng 70% giá thành năm 2011 và dự kiến, sẽ còn tăng tiếp trong thời gian tới.

Ý kiến bạn đọc