*Thể chế nhà nước - Theo thể chế Cộng hòa hỗn hợp, chế độ lưỡng viện.
Là nước Cộng hòa năm 1918.
Hiến pháp mới thông qua ngày 16 tháng Mười năm 1997.
Có 16 tỉnh và một số thành phố là những đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Thượng nghị viện gồm 100 thành viên và Hạ nghị viện gồm 460 thành viên đợc bầu bằng tuyển cử phổ thông đầu phiếu nhiệm kỳ 4 năm. Tổng thống được bầu trực tiếp nhiệm kỳ 5 năm (được hai nhiệm kỳ). Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng và được Hạ viện thông qua. Thủ tướng điều hành các thành viên của Nội các. Từ năm 1989 đến nay, Ba Lan đá 8 lần thay đổi Thủ tướng. Năm 2000 và 2001 - Ba Lan đã tiến hành bầu Tổng thống và Quốc hội nhiệm kỳ mới:
* Địa lý- Nằm ở Trung âu giáp biển Ban-tích. Phần lớn lãnh thổ Ba Lan là các vùng đất thấp. Phía bắc là các vùng trong của khu vực Ban-tích và các vùng hồ của khu vực Pô-mê-ra-ri-a và Ma-du-ri-a. Trung Ba Lan là một vùng đồng bằng. Phía nam là dãy đồi Lít-tơ-lơ Pô-lan và dãy núi Ta-tơ-ra với đỉnh cao nhất là Ri-sít, cao 2499 m.
Các sông chính: Vi-xtu-la, 1090 km; ô-đơ, 854 km; Vác-ta, 822 km.
Khí hậu: Khí hậu Ba Lan thiên về tính chất lục địa. Mùa hè ấm và ngắn, tháng Bảy nhiệt độ từ 16-19oC. Mùa đông lạnh và dài. tháng Giêng nhiệt độ âm 10 C đến âm 30 C, lượng mưa từ 600 đến 1800 mm.
* Kinh tế- Công nghiệp chiếm 35%, nông nghiệp: 5% và dịch vụ: 60% GDP.
Nền nông nghiệp Ba Lan chủ yếu, có quy mộ nhỏ và thuộc sở hữu tư nhân. Hơn 20% lực lượng lao động làm nông nghiệp. Các sản phẩm chính là khoai tây, lúa mì, lúa mạch, củ cải đường và cỏ làm thức ăn cho gia súc. Công nghiệp phát triển theo kế hoạch tập trung quy mô lớn. Ba Lan có các mỏ than đá khí tự nhiên, đồng và bạc lớn. Công nghiệp cơ khí chế biến thực phẩm, hóa chất, luyện kim và công nghiệp giấy chiếm vị trí quan trọng và cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Từ năm 1960 kinh tế Ba Lan liên tục giảm sút. Ngoài nạn lạm phát và chợ đen lan tràn, Ba Lan còn vay nợ nước ngoài nhiều. Năm 1989, Mỹ và Cộng đồng châu Âu đã thực hiện các chương trình viện trợ đáng kể giúp đỡ Ba Lan và Ba Lan đã bắt dầu thực hiện việc chuyên sang tư hóa, chuyển địch cơ cấu nền kinh tế hoàn thiện hệ thống luật pháp. Bước sang 2000, kinh tế Ba Lan có những tín hiệu khả quan. Ba quý đầu năm 2000, GDP tăng 5%, sản lượng công nghiệp vẫn tăng liên tục Tuy nhiên, lạm phát vẫn ở mức 8,6%; thất nghiệp còn tới 14%. Nhập khẩu gần 41 tỷ USD, xuất khẩu gần 28 tỷ USD; nợ nước ngoài lên 44 Tỷ USD, điện năng sản xuất hiện nay là 135 tỷ kwh, phần lớn là nhiệt điện.
*Văn hóa- xã hội – Số người biết đọc, biết viết chiếm gần 99% dân số, nam: 99%, nữ: 98%.
Giáo dục bắt buộc 8 năm, miễn phí. Chỉ có khoảng 5% số người dự thi trúng tuyển vào học trong các trường đại học. Đại học phải học từ 5 đến 6 năm,có các trường trung học kỹ thuật và trung học chuyên nghiệp học từ 4 đến 5 năm, trờng dạy nghề học 3 năm; trong các trường đại học y khoa 2/3 số sinh viên là nữ
Tuổi thọ trung bình đạt 73,13 tuổi, nam: 69,01, nữ: 77,6 tuổi.
Mọi công dân được chăm sóc sức khỏe miễn phí. Tuy nhiên vẫn khuyến khích y tế trí nhân phát triền và thực hiện xã hội hóa công tác y tế Ba lan có một số danh nhân nổi tiếng thế giới, như nhạc sĩ Sô-panh (1810-1849); nhà thiên văn học Nhi-cô-lai Cô-péc-ních (1473-1543) với tác phẩm về sự quay của các thiên thể, nhà khoa học nguyên tử Ma-ri Quy-ri (1867-1934)...
Những di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng dành cho du lịch, nghỉ ngơi và giải trí: Các bảo tàng Quốc gia ở Vác-sa-va. Viện bảo tàng Văn học, nhà thờ Thánh Giôn, cung điện Ban-vê-đa, viện bảo tàng Ma-ri Quy-ri, thành phố cổ Kra-kốp, đường mòn Cô-péc-ních, trại tập trung Ao-xê-vích...
|