Kể từ sau năm 2002, nền kinh tế của Thổ Nhĩ Kỳ đã có mức tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 4,5% nhờ vào dòng vốn đầu tư từ nước ngoài lên đến 40 tỷ USD mỗi năm. Chính nhờ dòng vốn này mà cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ đều tăng trưởng nhanh chóng.
Các thống kê cho thấy: giá trị nhập khẩu tăng vọt tới 505% từ 40 tỷ USD năm 2000 lên tới 242 tỷ USD vào cuối năm 2014. Vào năm 2000, nhập khẩu chiếm 15% tổng thu nhập quốc gia thì nay đã tăng gấp đôi để đóng góp tới gần một phần ba thu nhập quốc gia tính tới cuối năm 2014.
Giao dịch thương mại của Thổ Nhĩ Kỳ với kinh tế thế giới cũng đã tăng đến 33% chỉ trong 5 năm qua, từ 300 tỷ USD lên đến 400 tỷ USD. Ngoại thương đóng góp 41% thu nhập quốc gia và trong năm 2014 đã tăng lên 50%. Chỉ tính riêng trong bốn năm trở lại đây (từ 2010 tới 2014), Thổ Nhĩ Kỳ đã nhập khẩu 231 tỷ USD so với 142 tỷ USD xuất khẩu. Điều này đồng nghĩa với việc ngoại tệ thu về từ xuất khẩu chỉ đủ để bù cho 61% tiền nhập khẩu hàng hóa mà nước này phải bỏ ra. Mức chênh lệch trung bình hàng năm giữa nhập khẩu và xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ là 89 tỷ USD, tức là nước này có mức thâm hụt ngoại thương lên đến 89 tỷ USD/năm.
Nếu không tính nông nghiệp (vốn chỉ chiếm chưa đầy 5% giao dịch thương mại) thì có thể thấy là hai lĩnh vực được nhập khẩu nhiều nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ là công nghiệp và năng lượng. Hai ngành này được nhập khẩu 136,3 tỷ USD vào năm 2010 và đã lên đến 233,6 tỷ USD vào năm 2014. Giá trị nhập khẩu trung bình hàng năm của hai ngành này ở mức khoảng 223,5 tỷ USD. Trong khi đó, xuất khẩu công nghiệp của Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhẹ hơn trong cùng kỳ, từ 109 tỷ USD trong năm 2010 lên 152 tỷ USD trong năm 2014. Giá trị xuất khẩu trung bình hàng năm trong 5 năm qua của công nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ là 137 tỷ USD. Mức thâm hụt thương mại vào năm 2010 là 70 tỷ USD và tăng lên thành 82 tỷ USD năm 2014, tức trung bình khoảng 87 tỷ USD mỗi năm.
Trong năm năm trở lại đây, mức tăng trưởng xuất khẩu thường niên trung bình của Thổ Nhĩ Kỳ là 9% còn nhập khẩu là 12%. Điều này đồng nghĩa với xuất khẩu cứ tăng 3% là nhập khẩu sẽ tăng 4%. Mức tăng thâm hụt ngoại thương trong khoảng thời gian trên là 22%. Một lần nữa phải nhắc lại việc trong năm năm gần nhất, xuất khẩu đã bù cho nhập khẩu đến 61%. Đây là thông số rõ ràng nhất chứng tỏ sự phụ thuộc.
Trong giai đoạn từ 2010-2014, xuất khẩu và nhập khẩu lần lượt đóng góp 18,2% và 30% vào tổng thu nhập quốc gia. Song điều này cũng dẫn tới việc thâm hụt ngoại thương của Thổ Nhĩ Kỳ rơi vào mức tương đối cao là khoảng 11,4% hàng năm. Chỉ số tiêu cực này khiến Thổ Nhĩ Kỳ trở nên mong manh, khi mà mỗi lĩnh vực đều có cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Tùy vào từng lĩnh vực sẽ có chỉ số xuất khẩu mạnh hay yếu. Hệ quả là việc chỉ số thâm hụt thương mại ngày càng tăng không thể được lấp đầy với dòng ngoại tệ đổ vào từ các ngành dịch vụ, du lịch ...
Nền công nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ phụ thuộc nhiều nhất vào nhập khẩu các loại nguyện liệu thô. Trong số các ngành công nghiệp nhập khẩu nhiều nhất, năng lượng đứng đầu với dầu thô, khí đốt tự nhiên, các sản phẩm về xăng dầu và than ... Trung bình mỗi năm trong giai đoạn 2010-2014, Thổ Nhĩ Kỳ tiêu tốn 52,5 tỷ USD vào nhập khẩu năng lượng, trong khi chỉ xuất khẩu khoảng 6,1 tỷ USD/năm.
Với cơ chế “tỷ giá ngoại tệ thấp – lãi suất cao”, Thổ Nhĩ Kỳ đã giữ được dòng vốn trong khoảng một thập niên. Song tới giữa năm 2010, đồng tiền Thổ đã mất giá như một hệ quả từ những thay đổi từ phía Hoa Kỳ cũng như các căng thẳng địa chính trị trong khu vực. Tỷ lệ đổi USD từ 1,8 lira Thổ Nhĩ Kỳ trong năm 2012 đã trở thành 1,9 lira vào năm 2013 và kết thúc năm 2014 với con số 2,20. Vào thời điểm hiện tại, một USD đã có giá trị xấp xỉ 2,6 lira và điều này sẽ ảnh hưởng một cách tiêu cực tới nhiều công ty trong lĩnh vực công nghiệp.
Thương vụ Việt Nam tại Thổ Nhĩ Kỳ