Thị trường ngoài nước
Quốc tế hóa nhân dân tệ, Trung Quốc làm tốt hơn Nhật?
08/10/2016

Kinh tế Trung Quốc đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng sản xuất thừa, đây là điều kiện tốt cho việc quốc tế hoá nhân dân tệ.

Đồng nhân dân tệ có lặp lại vết xe đổ của đồng yên?

Trước sự kiện IMF đưa đồng nhân dân tệ của Trung Quốc (CNY) vào rổ tiền tệ quốc tế từ ngày 1/10/2016, Bloomberg có phân tích về tương lai quốc tế hoá của đồng tiền này. Hãng tin của Mỹ cho rằng để cạnh tranh với USD thì CNY nên nhìn vào bài học từ đồng yên Nhật (JPY).

Tuy nhiên theo cá nhân người viết thì bài học của việc quốc tế hoá JPY trong quá khứ chỉ có ý nghĩa nhiều hơn là giá trị với việc quốc tế hoá CNY, sau khi đã trở thành 1 trong 5 đồng tiền phổ biến trong quỹ dự trữ của IMF – Quyền rút vốn đặc biệt (SDR).

Bloomberg cho rằng, dựa vào vai trò của kinh tế Trung Quốc trong nền kinh tế toàn cầu và sự xâm nhập của các tế bào kinh tế Trung Quốc vào cuộc sống của người dân trên toàn thế giới, có thể đưa ra nhận định rằng, CNY sẽ quốc tế hoá nhanh và vững chắc hơn so với JPY trong quá khứ.

Có chủ quan quá không?

Đồng Yên được Mỹ cổ vũ còn đồng Nhân dân tệ thì không!

Có thể thấy rằng, hàng hoá và tiền tệ luôn song hành bởi hàng hoá là nền giá trị của tiền tệ. Khi kinh tế Nhật vươn lên thứ hai thế giới thì vai trò của JPY cũng tăng lên trong nền kinh tế - tài chính toàn cầu. Song cũng như kinh tế Châu Âu, kinh tế Nhật cũng có được cú hích từ Mỹ.

Kinh tế Nhật Bản phát triển và trở nên hùng mạnh phụ thuộc vào hai lĩnh vực chính là công nghiệp sản xuất ô tô và công nghiệp điện tử. Với giá trị/sản phẩm lớn nên việc gia tăng tiêu thụ hàng hoá của hai lĩnh vực này sẽ giúp nhanh chóng mở rộng quy mô GDP của nước Nhật.

Hàng chục năm trời trong trong các thập niên 70 và 80 của thế kỷ trước, nguồn thặng dư mậu dịch trong quan hệ thương mại Nhật–Mỹ đóng vai trò quyết định với sức mạnh kinh tế Nhật Bản, nguồn lực mở rộng quy mô GDP chủ yếu nhờ xuất siêu ô tô vào thị trường Mỹ.

Trước bất lợi quá lớn, năm 1998, Hoa Kỳ đã sử dụng thặng dư mậu dịch làm công cụ hiệu chỉnh quan hệ thương mại Mỹ-Nhật. Theo đó, Nhật phải tìm cách giảm thâm hụt thương mại cho Mỹ, đổi lại Mỹ hỗ trợ thúc đẩy quốc tế hoá JPY, theo Bloomberg.

Ở khia cạnh quốc tế hoá JPY nhờ thương mại hàng hoá cũng không bền vững. Ô tô không phải là hoá sử dụng cho mọi người, mọi nhà – đó là không phải là dạng hàng hoá thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày. Số người tiêu thụ ô tô Nhật chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với dân số Mỹ.

Đối với hàng điện tử cũng không khác bao nhiêu. Cho dù là mặt hàng công nghệ cao có mức độ phổ biến nhanh chóng vì đáp ứng như cầu thiết thực cho người tiêu dùng, song hàng điện tử thời điểm đó cũng là hàng xa xỉ, chứ không phải hàng hoá sử dụng đại trà.

Do vậy, khi nhu cầu mua sắm hàng hoá tăng cao, nhờ đó mà được JPY quốc tế hoá rộng rãi. Nhưng ô tô hay hàng điện tử không phải là hàng tiêu dùng một lần mà có vòng đời sản phẩm, vì vậy mua sắm mang tính chu kỳ.

Có thể nhận diện đây là nguyên nhân rất quan trọng trong khiến cho việc quốc tế hoá JPY “sớm nở tối tàn”. Cùng với đó là kinh tế bong bóng xì hơi khiến cho kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái kéo dài, JPYcũng vì thế mà mất dần vai trò của nó.

Mặt khác, nước Nhật không có hệ thống thuộc địa như Anh, Pháp để từ đó hình thành nên thói quen sử dụng đồng tiền của Nhật tại các quốc gia khác trên thế giới. Do vậy khi kinh tế Nhật co lại thì việc quốc tế hoá JPY cũng bị ảnh hưởng, không giống với đồng bảng Anh (GBP).

Trong khi đó, hiện nay tại hầu khắp các quốc gia trên thế giới, hàng hoá của Trung Quốc gần như hiện diện ở mọi ngóc ngách của cuộc sống gia đình hàng ngày. Từ các loại sản phẩm có vòng đới tính bằng năm đến hàng hoá có vòng đời chỉ tính bằng giây, bằng phút.

Vì vậy, dù sức mạnh kinh tế Trung Quốc cũng nhờ phần lớn vào thặng dư mậu dịch trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung, song Mỹ không dễ ép Trung Quốc như ép Nhật Bản. Bởi lẽ, kinh tế Trung Quốc thiệt hại thì kinh tế Mỹ cũng thiệt hại không kém.

Điều đó cho thấy, CNY đã có nền tảng giá trị vững chắc trong nền kinh tế toàn cầu. Hai rào cản lớn nhất đối với quốc tế hoá CNY đều mang tính chủ quan. Thứ nhất là là chất lượng hàng hoá giá rẻ của Trung Quốc đang khiến người tiêu dùng không hài lòng.

Thứ hai là việc chính phủ Trung Quốc tham gia điều tiết trực tiếp tỷ giá hối đoái của CNY có thể tạo ra tỷ giá phi lý giữa CNY với các đồng tiền khác, gây bất bình đẳng trong nền kinh tế thế giới theo hướng có lợi cho kinh tế Trung Quốc.

Bloomberg cho rằng, chỉ cần khắc phục hai yếu tố đó thì CNY sẽ đảm bảo được quốc tế hoá nhanh chóng và bền vững. Việc quốc tế hoá đồng CNY sẽ không rơi vào vết xe đổ của đồng JPY.

Bắc Kinh đã có những công cụ hữu hiệu?

Việc kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh chóng giúp cho JPY quốc tế hoá dễ dàng, từ đó khiến chính phủ Nhật chủ quan trong việc hỗ trợ JPY quốc tế hoá và giữ được hiệu ứng tốt cho việc quốc tế hoá JPY.

Vì vậy, khi mức độ quốc tế hoá JPY bị sụt giảm, chính phủ Nhật đã trở tay không kịp. Cùng với đó là suy thoái kinh tế kéo dài, khiến JPY ngày càng trở nên lép vế so với USD và euro. Thậm chí nếu so sánh tiềm lực kinh tế Nhật với Anh thì mức độ quốc tế hoá JPY đứng sau cả GBP.

Xem ra bài học nhãn tiền của Nhật Bản đã được Bắc Kinh học thuộc. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, chính phủ Trung Quốc đưa kinh tế nước này thoát ra tốt hơn bất cứ quốc gia nào có nền kinh tế thị trường trên thế giới.

Khi phát triển nóng gây ra nhiều hệ luỵ cho Trung Quốc, nhiều chuyên gia phân tích kinh tế Trung Quốc sẽ xì hơi như kinh tế bong bóng của Nhật Bản trong những năm 1990 của thế kỷ 20. Tuy nhiên, Chủ tịch Tập Cận Bình đã có “Tái cơ cấu” là phương thuốc hiệu nghiệm.

Không những vậy, Bắc Kinh còn thực hiện nhiều biện pháp, sử dụng nhiều công cụ chuẩn bị cho việc quốc tế hoá CNY, sau khi bước vào giỏ tiến tệ quốc tế. Có thể thấy rằng, việc thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạng tầng Châu Á (AIIB) là một bước đi chuẩn xác.

Ngân hàng khổng lồ này trong tương lai sẽ giúp CNY có mặt trong dòng vốn giải ngân cho các dự án cũng như trong các dịch vụ tài chính khác của nó. Cùng với đó là phát hành trái phiếu xanh bằng CNY của Ngân hàng Phát triển mới (NDB) do các thành viên khối BRICS thành lập.

Không những vậy, Trung Quốc còn cho mở ngân hàng thanh toán đồng CNY trên đất Mỹ, đặt tại New York, với tổng tài sản hơn 50 tỉ USD, tương đương một quý trao đổi thương mại song phương Trung-Mỹ, nhằm tạo điều kiện quốc tế hóa nhanh chóng cho CNY.

Nhưng, đặc biệt quan trọng là kết quả những thương vụ “M&A by Chinese” đã hình thành nên những thực thể kinh tế “mình ong xác ve” của Trung Quốc ở nước ngoài.

Những thực thể kinh tế “mình ong xác ve” ấy trở thành công cũ hữu hiệu giúp cho tiến trình quốc tế hoá CNY.

Theo Bloomberg, những thương vụ “M&A by Chinese” là hiện thực hoá chiến lược “mình ong xác ve” của Bắc Kinh và sẽ diễn ra theo 3 giai đoạn. Thứ nhất, “M&A by Chinese action”, doanh nghiệp Trung Quốc dùng tiền để thay đổi cầu trúc của các thực thể kinh tế mục tiêu.

Thứ hai, “M&A on Chinese policy”, doanh nghiệp Trung Quốc dùng người để thay đổi chính sách của các thực thể kinh tế mục tiêu. Thứ ba, “M&A in Chinese model”, doanh nghiệp Trung Quốc dùng tiền và người làm thay đổi bản chất hoạt động của các thực thể kinh tế mục tiêu.

Sau khi thay đổi bản chất hoạt động, những thực thể kinh tế “mình ong xác ve” của Trung Quốc ở nước ngoài sẽ có vai trò như những con chip phát tán virus chiến lược quốc tế hoá CNY của chính phủ Trung Quốc vào kinh tế toàn cầu.

CNY sẽ đọ sức với USD và dần sẽ thách thức đồng tiền đang đóng vai trò số một trong nền tài chính toàn cầu này. Như vậy, việc quốc tế hoá CNY không cần tới một cú hích từ Washington mà sẽ dẫn đến sự phụ thuộc rất lớn của CNY vào USD trong tương lai.

Hiện nay kinh tế Trung Quốc đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng sản xuất thừa, đây là một điều kiện tốt cho việc quốc tế hoá CNY sau khi vào SDR. Vấn đề còn lại phụ thuộc vào chính sách của chính phủ Trung Quốc trong việc hiện thực hoá tham vọng của mình mà thôi.

Nguồn Báo đất việt

Ý kiến bạn đọc